Phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030: Chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả

Phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030: Chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả
Trong bối cảnh xu hướng tự động hóa, điện tử hóa, số hóa, tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, yêu cầu đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề

 Đối với Việt Nam chúng ta, trong bối cảnh xu hướng tự động hóa, điện tử hóa, số hóa, tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) và hội nhập quốc tế, yêu cầu đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề, nhất là nhân lực có tay nghề cao để tranh thủ thời cơ dân số vàng góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, cần thiết phải có một chiến lược tổng thể cho giáo dục nghề nghiệp (GDNN) phát triển trong giai đoạn tới. Đó là khẳng định của Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN TRƯƠNG ANH DŨNG.

Xác định rõ mục tiêu chiến lược

- Xin ông cho biết, quan điểm phát triển GDNN giai đoạn 2021 - 2030 là gì?

- Ở phạm vi toàn cầu, mục tiêu phát triển bền vững 2030 của LHQ đã xác định phát triển con người, giáo dục - đào tạo là trung tâm, trong đó trọng tâm là phát triển kỹ năng nghề và GDNN. Nhằm đạt được mục tiêu thiên niên kỷ.

UNESCO cũng có 1 chiến lược riêng về GDNN, nhóm các nước G20, OECD và nhiều quốc gia phát triển gần đây tập trung phát triển chiến lược GDNN, chiến lược kỹ năng.


 

Với Việt Nam, dựa trên chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay và đặc biệt là Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, chúng tôi đã đưa ra 5 quan điểm phát triển GDNN. 

Một là, phát triển GDNN phải được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới. Tại sao, bởi Thế giới xếp phát triển GDNN, phát triển kỹ năng nghề trong trụ cột kinh tế, vì thực chất đây không chỉ đơn thuần là vấn đề giáo dục để trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, mà đằng sau đó là góp phần nâng cao NSLĐ và năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy tăng GDP, Chỉ thị số 24 ngày 28.5.2020 của Thủ tướng Chính phủ vừa qua đã cho thấy rõ điều này. Ngoài ra, đối với Việt Nam chúng ta, đó còn là vấn đề chính trị, giai cấp (nâng tầm, vị thế của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động Việt Nam trong thời kỳ mới).

Hai là, đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN cần chú trọng cả quy mô, cơ cấu và chất lượng đào tạo đồng bộ với đổi mới căn bản toàn diện về giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, bảo đảm tính ổn định của hệ thống nhưng cần tầm nhìn dài hạn.

Ba là, phát triển hệ thống GDNN theo hướng mở, đa dạng, linh hoạt, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, dễ tiếp cận và công bằng, với nhiều phương thức và trình độ đào tạo…

Bốn là, đào tạo nghề nghiệp phải đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, có sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp. Lấy sự chấp nhận của thị trường lao động là thước đo của hiệu quả GDNN; nâng chất lượng GDNN từng bước đạt chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong nước và hội nhập với thị trường lao động khu vực và thế giới cũng như thích ứng với CMCN 4.0. Thực hiện chuyển số, ứng dụng CNTT mạnh mẽ hơn nữa trong quản lý, điều hành và tổ chức đào tạo.

Năm là, GDNN là dịch vụ công cơ bản, thiết yếu được ưu tiên trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho trường chất lượng cao, các cơ sở GDNN chuyên biệt tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, các ngành, nghề đặc thù và các đối tượng chính sách.

- Ông có thể cho biết thêm về mục tiêu cũng như phương án phát triển GDNN đến năm 2025 và năm 2030? 

- Mục tiêu chung, cần phát triển hệ thống GDNN theo hướng mở, linh hoạt, chất lượng, hiệu quả, dễ tiếp cận, công bằng và bền vững. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của GDNN. Phấn đấu đến năm 2030, GDNN Việt Nam tiếp cận trình độ các nước ASEAN - 4. Trong đó, một số mục tiêu cụ thể chiến lược hướng tới là:

Về quy mô tuyển sinh, năm 2025 phấn đấu tăng gấp 2 lần hiện nay, đến năm 2030 tăng gấp 3 lần hiện nay với cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo phù hợp, không chỉ cho thị trường lao động hiện tại và trong ngắn hạn, mà cần tập trung chuẩn bị cho 5 - 10 năm tới, thậm chí dài hơi hơn. Chất lượng và hiệu quả đào tạo phải nâng lên, phấn đấu ít nhất 90% người học sau khi tốt nghiệp có việc làm theo đúng nghề, trình độ đào tạo hoặc làm việc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo.

Về mạng lưới, phát triển hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt, chuẩn hoá, hiện đại hoá, có phân tầng chất lượng. Nhà nước tập trung đầu tư một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho các nhóm đối tượng đặc thù. Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 70 trường được đánh giá, công nhận trường cao đẳng chất lượng cao, trong đó 3 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20, 40 trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN - 4; đến năm 2030 có khoảng 100 trường được kiểm định, đánh giá, công nhận đạt tiêu chí của trường chất lượng cao, trong đó 15 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20; 50 trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4. Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ASEAN.

Hoàn thiện thể chế phải đi trước một bước

- Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thách thức cả về kinh tế, già hóa dân số và hội nhập quốc tế như hiện nay, việc đưa ra các mục tiêu như trong chiến lược có khó khăn gì không, thưa ông?  

- Mục tiêu như Dự thảo đưa ra là phù hợp với bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay và hướng tới đáp ứng yêu cầu của tương lai. Nhu cầu lao động có kỹ năng nghề, nhất là kỹ năng nghề cao phục vụ phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập lớn, chúng ta phải chuẩn bị nguồn nhân lực để đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ các “đại bàng”. Đồng thời, đào tạo, đào tạo lại là xu thế tất yếu để người lao động thích ứng với cuộc CMCN 4.0 - đã bộc lộ rõ qua đại dịch Covid - 19 vừa qua. Quan trọng, hiện nay chúng ta đang ở thời kỳ dân số vàng nên tôi cho rằng đây là cơ hội tốt cho phát triển GDNN để có thể tăng quy mô đào tạo như mục tiêu đã đề ra.

- Theo ông, đâu là giải pháp cốt lõi nhất để GDNN phát triển, đáp ứng được yêu cầu xã hội và thực hiện thành công các mục tiêu như trong chiến lược đề ra?

- Dự thảo chiến lược cũng đã đưa ra nhiều nhóm giải pháp: Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, đổi mới cơ chế, chính sách phát triển GDNN; Hiện đại hóa và đổi mới hình thức và phương thức đào tạo; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước và quản trị nhà trường; Tăng cường gắn kết GDNN với thị trường lao động và việc làm bền vững; Tăng cường các điều kiện đảm bảo và kiểm soát chất lượng; Thực hiện chuyển đối số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động đào tạo; Tăng cường nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp; Truyền thông, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. 

Trong đó tôi cho rằng, để thực hiện được các giải pháp sau thì việc hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách phải đi trước một bước, cùng với đó là ưu tiên đầu tư cho GDNN, đây là giải pháp quan trọng nhất. Theo đó, phải bổ sung hoàn thiện chính sách cho các đối tượng tham gia GDNN gồm người học, người dạy, cơ sở GDNN và đặc biệt là huy động được lực lượng đông đảo doanh nghiệp tham gia GDNN; xây dựng mô hình đào tạo phù hợp với bối cảnh nước ta, hình thành mô hình giáo dục chia sẻ để nâng cao hiệu quả đầu tư. Đồng thời, cần hiện thực hóa chính sách của Nhà nước về phát triển GDNN trong Điều 6 của Luật GDNN: “Đầu tư cho GDNN được ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nhân lực. Ngân sách cho GDNN được ưu tiên trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo” để tạo đột phá về quy mô và chất lượng GDNN.

Ngoài ra, trong thời đại của cuộc CMCN 4.0, chắc chắn không thể thiếu việc thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động đào tạo. Do đó, GDNN phải xây dựng các chương trình đào tạo chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ nhà nước, cán bộ quản lý cơ sở GDNN và đào tạo chính đội ngũ nhân lực cho chuyển đổi số nền kinh tế.

Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội Đồng Văn Ngọc:
Chú trọng phát triển đội ngũ nhà giáo

Sau 10 năm thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg, một nông thôn mới hiện đại với lực lượng lao động nông thôn cơ bản được đào tạo, chuyển đổi nghề; có kiến thức khoa học và có kỹ năng nghề… đã hình thành.

Các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn được mở ngay tại nhà xưởng, công trường, trang trại, nông trại, làng nghề... Đa số người dân được học nghề theo nhu cầu của bản thân và thị trường lao động. Đội ngũ giảng dạy không chỉ là giáo viên trong các cơ sở GDNN mà còn có sự tham gia của các nghệ nhân, những chuyên gia lành nghề, nhiều kinh nghiệm trực tiếp đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Bởi thế, nhiều người dân sau khi học nghề đã khởi nghiệp hoặc chuyển đổi nghề thành công. Lao động nông thôn đã biết vận dụng, phát huy kiến thức, kỹ năng học được vào chính công việc hàng ngày của mình, tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao… Thành công trên có vai trò của đội ngũ giáo viên, kỹ thuật viên, nghệ nhân, chuyên gia trong tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp được triển khai đào tạo.

Có thể thấy, Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã tạo ra sự đột phá và chuyển biến cơ bản về cách tiếp cận cho người nông thôn được học nghề. Đề án đã hoàn thành sứ mệnh trong giai đoạn 2009 - 2020. Tuy nhiên, Việt Nam đang trên đường phát triển trong đó có rất nhiều cơ hội và không ít thách thức, Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần phải tiếp tục với sứ mệnh mới, sứ mệnh hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Trước yêu cầu này, đội ngũ giáo viên GDNN cần phải được quan tâm, phát triển và bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong tình hình mới. Họ phải được chuyên môn hóa, phân cấp đào tạo cụ thể, gắn với đa dạng hóa loại hình đào tạo, đa dạng hóa cấp độ đào tạo cho phù hợp với sự dịch chuyển lao động nông thôn sang các khu vực việc làm khác và xuất khẩu lao động. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần quan tâm đến chất lượng cao, có thể đến cấp độ quốc tế. Nhất là, trước những diễn biến phức tạp của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19, vấn đề chất lượng đội ngũ giáo viên tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần được coi là khâu then chốt của then chốt.

Tham gia vào lĩnh vực này, những năm qua, Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội (trực thuộc Bộ NN - PTNT) đã đào tạo kỹ năng dạy học cho 990 cán bộ, chuyên viên của Trung tâm khuyến nông Quốc gia; 150 cán bộ Trung tâm Khuyến nông Hà Nội; 80 cán bộ Trung tâm khuyến nông Hải Phòng… Và, việc phát triển đội ngũ giáo viên tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ chính những người đã có nhiều kinh nghiệm, chuyên môn, kỹ năng là một giải pháp rất hiệu quả.

TS. Nguyễn Thị Hằng, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II (TP Hồ Chí Minh):
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự giải trình là xu thế tất yếu

Tôi cho rằng, để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập khu vực, quốc tế, cơ sở GDNN cần phải đổi mới về tư duy trong tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự giải trình.



Từ thực tiễn triển khai thí điểm tự chủ trong 5 năm qua và thực trạng GDNN hiện nay, thiết nghĩ, để đổi mới tư duy trong tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự giải trình, ngành GDNN cần thực hiện đồng bộ 6 giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường công tác truyền thông về tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN. Tự chủ và trách nhiệm giải trình cơ sở GDNN sẽ tạo ra cơ hội mới trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ: đào tạo theo đơn đặt hàng của nhà nước; của doanh nghiệp; được trình duyệt các dự án đầu tư theo cơ chế khoán; được trình duyệt các dự án đầu tư theo yêu cầu phải điều tiết và đặt hàng của Nhà nước; làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo hiệu quả lao động; khuyến khích việc ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học gắn với thị trường lao động và nhu cầu xã hội. Do vậy, việc truyền thông và tạo sự nhất trí cao của các đơn vị là giải pháp quan trọng, cần triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đồng độ.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế về cơ chế tự chủ đối với các cơ sở GDNN. Người đứng đầu các trường được phép tự chủ trong công tác tổ chức bộ máy, nhân sự, chuyên môn, tài chính và các hoạt động khác của đơn vị theo quy định. Để làm được điều này thì cơ quan quản lý nhà nước cần quyết liệt trong việc giao quyền cho các cơ sở GDNN trong xây dựng kế hoạch hoạt động ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; quyết định các chỉ tiêu nhiệm vụ hàng năm; tự bảo đảm các điều kiện cung cấp dịch vụ.

Thứ ba, ban hành cơ chế đặt hàng đào tạo cho các cơ sở GDNN thực hiện tự chủ. Cơ chế đặt hàng mà cơ quan chủ quản, quản lý nhà nước là xương sống trong việc thực hiện tự chủ của cơ sở GDNN. Chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế đặt hàng nhằm tạo sự công bằng trong phát triển các cơ sở GDNN thực hiện tự chủ.

Thứ tư, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý nội bộ cơ sở GDNN. Thành lập Hội đồng Trường để đại diện quyền sở hữu của nhà trường, quyết định về chiến lược và phương hướng hoạt động của trường; giám sát việc thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường, việc thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động của trường; công khai quy chế giám sát của giáo viên, cán bộ, viên chức và người học đối với mọi hoạt động của bộ máy lãnh đạo Trường.

Thứ năm, thực hiện định hướng các nội dung phù hợp với tự chủ và trách nhiệm giải trình cơ sở GDNN. Chuyển đổi nhanh mô hình đào tạo; đào tạo phải gắn với dịch vụ lao động; phân loại đội ngũ quản lý, cán bộ nhân viên và đội ngũ giáo viên để tạo cơ chế trong đào tạo; tổ chức cho các đơn vị học tập các văn bản HSSV, đào tạo mới ban hành; tiếp tục bổ sung đội ngũ quản lý, giáo viên có năng lực chuyên môn cao; đưa doanh nghiệp về trường thực hiện đào tạo.         

Thứ sáu, xây dựng cơ chế giám sát. Để tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN thì cơ chế giám sát mọi hoạt động vừa rất quan trọng và cũng là góp phần quyết định sự thành công của thực hiện cơ chế tự chủ.

Nguồn tin: Tổng Cục Giáo dục nghề nghiệp