Nâng cao chất lượng kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Chất lượng đào tạo nói chung, chất lượng GDNN nói riêng luôn là mối quan tâm không chỉ cơ quan quản lý nhà nước, của của các cơ sở GDNN, mà là mối quan tâm chung của các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Để đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng GDNN thì quản lý chất lượng đóng vai trò quan trọng, trong đó, kiểm định chất lượng được xác định là một những cộng cụ quan trọng để quản lý và kiểm soát chất lượng đào tạo. Trong những năm qua, GDNN đã có bước phát triển, chất lượng GDNN đã được nâng lên, tuy nhiên trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, HĐH, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0 đòi hỏi chất lượng ĐT nguồn nhân lực ngày một nâng cao cũng tác động đến công tác quản lý và kiểm định chất lượng.
 Mặc dù, theo quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp (2014) thì kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp là bắt buộc và ngày 06/6/2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 37 - CT/TW, trong đó, nêu rõ “Chú trọng kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường quản lý chương trình, nội dung và chất lượng GDNN, nhất là đào tạo nhân lực có tay nghề cao”, song thực tế công tác quản lý và kiểm định chất lượng GDNN trong thời gian qua chưa đạt được kết quả như mong muốn, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục nghề nghiệp và chưa thực sự phát huy vai trò thúc đẩy việc quản lý bảo đảm chất lượng và nâng cao chất lượng trong CSGDNN.
          Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của bảo đảm chất lượng trong GDNN “Đến năm 2030, đảm bảo tất cả phụ nữ và nam giới đều có quyền tiếp cận một cách bình đẳng tới giáo dục kỹ thuật, dạy nghề có chất lượng”.  Bên cạnh đó, trước yêu cầu nâng cao tính tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nâng cao tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, Luật GDNN đã quy định “cơ sở giáo dục phải bảo đảm chất lượng đào tạo”. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, truyền thông và cuộc cách mạng số và trước yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi phải đổi mới cách thức quản lý nói chung và quản lý chất lượng GDNN nói riêng nhằm hướng tới nâng cao chất lượng GDNN Việt Nam đáp ứng yêu cầu thị trường lao động và hội nhập quốc tế, và một trong những công cụ quản lý chất lượng đó chính là kiểm định chất lượng. Chính vì vậy, cần thiết phải nâng cao chất lượng kiểm định chất lượng GDNN trong thời gian tới.

I. THỰC TRẠNG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GDNN
Tính từ ngày Thông tư số 28/2017/TT-BLĐTBXH quy định hệ thống bảo đảm chất lượng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực: 01/02/2018.
+ Tự đánh giá chất lượng cơ sở GDNN




Số lượng cơ sở GDNN thực hiện tự đánh giá chất lượng tăng hàng năm, nhưng vẫn còn nhiều cơ sở chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật (bắt buộc đối với CSGDNN).
+ Tự đánh giá chất lượng chương trình đào tạo GDNN




Số lượng chương trình GDNN thực hiện tự đánh giá chất lượng tăng hàng năm, nhưng vẫn còn nhiều cơ sở chưa thực hiện tự đánh giá chất lượng chương trình đào tạo đúng quy định của pháp luật (bắt buộc đối với các chương trình đào tạo các ngành, nghề trọng điểm).
Kết quả kiểm định chất lượng GDNN đã được công khai trên trang điện tử của tổ chức kiểm định và của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp:
+ Kiểm định chất lượng cơ sở là 70 trường; Đạt 69 trường.
* Trong đó Cao đẳng là 65 trường, Đạt 64 ;
* Trung cấp là 5 trường, Đạt 5.
+ Kiểm định chất lượng CTĐT là 62 CTĐT, Đạt là 62;
* Trong đó trình độ CĐ là 57, Đạt là 576;
* Trình độ Trung cấp là 5, Đạt là 5.
Với số liệu trên cho thấy, số lượng cơ sở GDNN và chương trình đào tạo được kiểm định và công nhận chất lượng còn quá nhỏ so với số lượng CSGDNN và chương trình đào tạo các trình độ GDNN (69 trường; 62 chương trình), chưa đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm định chất lượng phục vụ công tác quản lý chất lượng và thúc đẩy việc nâng cao chất lượng. Theo quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp, các tổ chức kiểm định độc lập với cơ quan quản lý nhà nước do Nhà nước thành lập hoặc do các tổ chức và cá nhân thành lập; Nghị định số 49/2018/NĐ-CP quy định đối với các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện và được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định chất lượng thực hiện nên quá trình chuyển đổi mất thời gian. Đội ngũ kiểm định viên chuyên nghiệp còn ít, chủ yếu là kiểm định viên kiêm nhiệm, nhiều lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp chưa có kiểm định viên. Hơn nữa, số lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp được kiểm định chất lượng còn ít, cơ hội để các kiểm định viên được tham gia các đoàn kiểm định ít, nên cũng khó khăn cho việc nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm trong công tác kiểm định chất lượng, đặc biêt là việc cập nhật các kiến thức, kỹ năng, yêu cầu mới trong đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp và chương trình đào tạo các trình độ giáo dục nghề nghiệp. Số lượng tổ chức kiểm định chất lượng ít, hiện mới có 04 tổ chức được cấp chứng nhận đủ điều kiện kiểm định chất lượng GDNN, hiện chưa có đơn vị sự nghiệp nào được cấp chứng nhận đủ điều kiện kiểm định cũng như chưa có tổ chức kiểm định nào do nhà nước thành lập.
Theo quy định của Luật GDNN, việc kiểm định là bắt buộc đối với cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, chuyên ngành hoặc nghề trọng điểm quốc gia, khu vực, quốc tế, cơ sở GDNN và chương trình đào tạo các ngành, nghề phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước. Điều này khẳng định kiểm định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý, kiểm soát chất lượng GDNN của Nhà nước. Mặc dù KĐCL là bắt buộc theo quy định của Luật GDNN nhưng chưa có quy định cụ thể về lộ trình thực hiện quy định này, đồng thời chưa có chế tài xử lý đối với các CSGDNN và chương trình đào tạo kiểm định chất lượng không đạt chuẩn, nên chưa có tác động để các cơ sở phấn đấu đạt chuẩn kiểm định chất lượng theo yêu cầu. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo chưa được thực hiện theo yêu cầu của Khung trình độ quốc gia.
Mặt khác, theo dữ liệu công khai của các tổ chức kiểm định chất lượng về triển khai các hoạt động kiểm định chất lượng, trong số các cơ sở và chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng có kết quả là: Kiểm định chất lượng cơ sở là 70 trường; Đạt 69 trường ( cao đẳng 64/65;trung cấp 5/5; chương trình CĐ 57/57; TC 5/5); 62 chương trình đào tạo được kiểm định thì đều đạt tiêu chuẩn KĐCL; Với kết quả kiểm định chất lượng như trên cũng như thông qua kết quả kiểm tra trực tuyến 02 tổ chức kiểm định chất lượng năm 2021, cũng đã bộc lộ những vấn đề cần khắc phục và rút kinh nghiệm trong triển khai thực hiện kiểm định chất lượng trong thời gian tới như: công cụ, quy trình kiểm định chất lượng, vấn đề về nhân sự bao gồm cả chất lượng đội ngũ kiểm định viên, đội ngũ tham gia Hội đồng thẩm định, việc tổ chức, quản lý hoạt động kiểm định, vấn đề kiểm tra, giám sát, đánh giá tổ chức kiểm định, ....

II. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ, PHÁP LÝ VỀ PHÁT TRIỂN KIỂM ĐỊNH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GDNN

- Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 tại Hội nghị TW 8 khóa XII về Đổi mới căn bản toàn diện GD –ĐT đã đề ra giải pháp: “Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định”;
- Ngày 06/6/2014, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 37 - CT/TW, trong đó, nêu rõ “Chú trọng kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường quản lý chương trình, nội dung và chất lượng GDNN, nhất là đào tạo nhân lực có tay nghề cao”;
- Căn cứ Luật GDNN (2014); Luật Giáo dục (2019) quy định Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục, trong đó: “Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; khung trình độ quốc gia”;  “Quy định về đánh giá chất lượng giáo dục; tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục” 
- Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 16/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung trình độ quốc gia, trong đó quy định trách nhiệm của Bộ LĐTBXH: “Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo dựa trên các minh chứng được xác định theo chuẩn đầu ra và các điều kiện bảo đảm chất lượng”;
- Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 15/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch triển khai Khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ giáo dục nghề nghiệp, giai đoạn 2021 – 2025.
-  Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng  trong đó có nhiệm vụ “Tăng cường công tác kiểm định chất lượng giáo dục”; “Triển khai có hiệu quả hệ thống giáo dục quốc dân; thực hiện đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa theo mô hình giáo dục mở, khung trình độ quốc gia, gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số”.
Để triển khai hoạt động kiểm định chất lượng GDNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 49/2018/NĐ-CP ngày 30/3/2018 của Chính phủ quy định về Kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, ban hành Thông tư số 15/2017/TT-BLĐTBXH ngày 08/6/2017 của quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; Thông tư số 27/2018/TT- BLĐTBXH ngày 25/12/2018 quy định về quy chế đánh giá cấp thẻ kiểm định viên chất lượng giáo dục nghề nghiệp; quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp; Thông tư số 28/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định về hệ thống bảo đảm chất lượng của cơ sở GDNN, trong đó quy định việc tự đánh giá chất lượng GDNN. Đồng thời, Tổng cục GDNN đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện đánh giá chất lượng theo các bộ tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN.
Ngày 30 tháng 12 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 2222/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số trong giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, có nhiệm vụ và giải pháp:
Về chuyển đổi số hoạt động quản lý nhà nước: Điều hành hoạt động giáo dục nghề nghiệp dựa trên hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu giáo dục nghề nghiệp thông qua Trung tâm thông tin tích hợp (IOC); “Xây dựng công cụ và triển khai hoạt động kiểm tra, hoạt động đảm bảo chất lượng, hoạt động đánh giá kỹ năng nghề thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.”
Về chuyển đổi số trong quản trị của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp: “Số hóa hoạt động của nhà trường, trong đó chú trọng đến quản lý tuyển sinh, đào tạo, đảm bảo chất lượng, phát triển chương trình, quản lý nhà giáo, quản lý học sinh, sinh viên, kết nối doanh nghiệp; Đẩy mạnh việc đảm bảo chất lượng đối với việc dạy học trực tuyến”.
Ngày 30 tháng 12 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 2239/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đề ra mục tiêu đến 2025: “Ít nhất 30% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 50% chương trình đào tạo các ngành, nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng”. Đến năm 2030: “Ít nhất 70% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 100% chương trình đào tạo các ngành, nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng”. Nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược đặt ra trong thời giai đoạn tới “Phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng quốc gia về giáo dục nghề nghiệp tiếp cận “quản lý rủi ro” và đẩy mạnh “hậu kiểm”. Nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình, phát huy vai trò người đứng đầu trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ quan quản lý các cấp. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm định, đánh giá và công nhận chất lượng giáo dục nghề nghiệp”.
Với các chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước đối với công tác kiểm định chất lượng GD nói chung và kiểm định chất lượng nói riêng, chính là căn cứ quan trọng để các cơ quan, tổ chức

III. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Qua phân tích thực tiễn về công tác kiểm định chất lượng GDNN cũng như các yêu cầu và định hướng phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng GDNN trong thời giai đoạn tới nhằm xây dựng và phát triển GDNN mở, linh hoạt, hiện đại, hội nhập quốc tế, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm định chất lượng như sau:
1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp
- Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa bổ sung tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng GDNN ttheo hướng kiểm định chất lượng theo chuẩn đầu ra. Coi việc đánh giá các hoạt động của nhà trường phải tuân thủ quy định pháp luật được coi là điều kiện cần (nhất thiết phải tuân thủ) để đảm bảo chất lượng hay nói cách khác điều chỉnh từ các tiêu chuẩn kiểm định nặng về quy định/quy tắc (mang tính cứng nhắc) sang dựa trên nguyên lý (mang tính mở, linh hoạt, hiệu quả).
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy trình kiểm định chất lượng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong GDNN.
- Rà soát chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện các tài liệu hướng dẫn thực hiện tự đánh giá chất lượng, kiểm định chất lượng.
- Bồi dưỡng, nâng cao năng lực thực hiện bảo đảm chất lượng cho cán bộ, quản lý, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
- Phát triển đội ngũ kiểm định viên cả về chất lượng và số lượng đáp ứng nhu cầu công tác kiểm định chất lượng. Phát triển mạng lưới các tổ chức kiểm định chất lượng GDNN.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng quốc gia tiếp cận “quản lý rủi ro” và đẩy mạnh “hậu kiểm”.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động kiểm định chất lượng, bảo đảm chất lượng GDNN của tổ chức kiểm định chất lượng và cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
2. Đối với các tổ chức kiểm định chất lượng:
- Tuân thủ các quy định, quy trình kiểm định chất lượng GDNN, các hướng dẫn của Cơ quan quản lý nhà nước về triển khai thực hiện kiểm định GDNN.
- Quan tâm dành nguồn lực để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực (gồm cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp kiểm định và phải cập nhật các kiến thức về bảo đảm chất lượng GDNN). Nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thành viên Hội đồng thẩm định, kiểm định viên tham gia các hoạt động kiểm định chất lượng cho tổ chức kiểm định.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, hợp tác, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật các tiêu chuẩn, kỹ năng, phương pháp đánh giá chất lượng của các tổ chức kiểm định chất lượng tiên tiến trên thế giới.
- Giám sát chất lượng các hoạt động của đoàn đánh giá ngoài các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và chương trình đào tạo các trình độ giáo dục nghề nghiệp mà tổ chức kiểm định thực hiện kiểm định. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá đảm bảo tính khách quan, thực chất, cũng như việc đưa ra các khuyến nghị có giá trị giúp cơ sở giáo dục nghề nghiệp nâng cao chất lượng đào tạo đồng thời nâng cao uy tín của tổ chức kiểm định.
- Kịp thời phản hồi các ý kiến, những khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện kiểm định với cơ quan quản lý nhà nước về kiểm định chất lượng GDNN để kịp thời điều chỉnh các văn bản cho phù hợp và có giải pháp tháo gỡ vướng mắc.
3. Đối với kiểm định viên:
- Không ngừng tự học tập, nghiên cứu, cập nhật các kiển thức, kỹ năng về kiểm định chất lượng và bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp.
- Giữ gìn phẩm chất đạo đức, xây dựng uy tín cá nhân, thực hiện đúng nguyên tắc, yêu cầu của kiểm định viên trong tham gia hoạt động kiểm định chất lượng: Đánh giá khách quan, công bằng, thực chất và có trách nhiệm trong đề xuất các giải pháp cải tiến, nâng cao chất lượng cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp tham gia kiểm định.
- Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về kiểm định chất lượng, bảo đảm chất lượng. Kịp thời phản hồi những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện kiểm định chất lượng với tổ chức kiểm định, và cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghể nghiệp để có giải pháp tháo gỡ.
- Không ngừng nâng cao năng lực kiểm định chất lượng, phấn đấu đủ điều kiện tham gia kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn kiểm định chất lượng của khu vực và quốc tế,... Đẩy mạnh hợp tác và giao lưu quốc tế về bảo đảm và kiểm định chất lượng trong khuôn khổ quy định của Pháp luật.
4. Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp:
- Tuân thủ quy định về hệ thống bảo đảm chất lượng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Phát triển hệ thống thông tin bảo đảm chất lượng, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và số hóa hệ thống thông tin bảo đảm chất lượng.
- Nâng cao năng lực bảo đảm chất lượng và tự đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp và chương trình đào tạo cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, giảng viên và nhân viên của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Thực hiện kiểm định chất lượng cơ sở GDNN và chương trình đào tạo theo quy định của pháp luật.
- Không can thiệp, hoặc có tác động làm sai lệch kết quả kiểm định chất lượng của cơ sở và các chương trình đào tạo của trường. Cung cấp thông tin, minh chứng đảm bảo chính xác, trung thực cho đoàn đánh giá ngoài tham gia kiểm định chất lượng trường.
- Thực hiện công khai hệ thống bảo đảm chất lượng, báo cáo tự đánh giá chất lượng, kết quả kiểm định chất lượng; Thực hiện kế hoạch khắc phục những tồn tại đã được chỉ ra trong báo cáo đánh giá chất lượng cũng như có giải pháp cải tiến để không ngừng nâng cao chất lượng của nhà trường.
- Ưu tiên dành nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng để bảo đảm chất lượng và nâng cao uy tín, thương hiệu của nhà trường./.